Kinh tế chuyển mình mạnh mẽ từ các quyết sách của Đảng

Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt

Có thể khẳng định, tư duy lý luận kinh tế của Đảng thực sự đi trước, có vai trò dẫn đường và định hướng quá trình đổi mới và phát triển kinh tế trên thực tế. Cùng với đó, mỗi kỳ đại hội Đảng đều có những quyết sách kinh tế tạo ấn tượng sâu đậm trong nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân, từ đó tạo sự thống nhất, đồng thuận, tin tưởng trong Đảng, trong xã hội. Cùng điểm lại những quyết sách kinh tế qua các kỳ đại hội:

Tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (từ ngày 28/6 - 1/7/1996), Đảng đã đề ra chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội chỉ rõ nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu về kinh tế của giai đoạn 1996-2000 là: Tập trung sức cho mục tiêu phát triển, đến năm 2000, GDP bình quân đầu người tăng gấp đôi năm 1990. Nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân hằng năm đạt khoảng 9-10%. Tốc độ tăng giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp bình quân hằng năm 4,5-5%. Phát triển các ngành công nghiệp, chú trọng trước hết công nghiệp chế biến, công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu...

Ðại hội lần thứ VIII của Ðảng diễn ra từ ngày 28/6 - 1/7/1996, tại Hội trường Ba Ðình, Hà Nội. Ảnh tư liệu

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (từ ngày 19 - 22/4/2001), Đảng ta xác định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội IX đã hoạch định Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 với mục tiêu tổng quát là: Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (từ ngày 18 đến 25/4/2006) là Đại hội tổng kết 20 năm đổi mới, xác định mục tiêu đưa đất nước sớm ra khỏi tình trạng nước kém phát triển. Đại hội đã thông qua mục tiêu và phương hướng phát triển đất nước 5 năm 2006-2010, về kinh tế: Đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (từ ngày 12 - 19/1/2011), Đảng đã bổ sung, phát triển Cương lĩnh, phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và trong đó nổi bật là quyết định đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, hội nhập quốc tế. Quyết định mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 – 2020, là: Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Trong đó, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; phát triển mạnh công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh, tạo nền tảng cho một nước công nghiệp; phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững; phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là các dịch vụ có giá trị cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh; phát triển nhanh kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông...

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII (từ ngày 20 - 28/1/2016), Đảng đã đặt ra mục tiêu tổng quát về phát triển kinh tế: Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Với các chỉ tiêu quan trọng, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 6,5 - 7%/năm.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII (từ ngày 25/1 - 2/2/2021), Đảng ta đã xác định 3 đột phá chiến lược để phát triển đất nước gồm: Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII (từ ngày 25/1 - 2/2/2021)

Đồng thời Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra một số mục tiêu cụ thể đối với phát triển kinh tế trong giai đoạn 2021 - 2025, gồm tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt khoảng 6,5% - 7%/năm; đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp vào tăng trưởng đạt khoảng 45%; tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân trên 6,5%/năm; tỷ lệ đô thị hóa khoảng 45%; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt trên 25%; kinh tế số đạt khoảng 20% GDP.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là từ khi thực hiện đường lối hội nhập kinh tế đất nước đến nay, Đảng ta không ngừng đổi mới, sáng tạo trong phương thức lãnh đạo trên lĩnh vực kinh tế.

Đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng được định hình rõ nét và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Trong thời gian tới, để thực hiện được mục tiêu phát triển kinh tế nhanh, bền vững trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế, Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh: “Chiến lược phát triển tổng thể của đất nước ta là đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và bền vững đất nước; bảo đảm gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”.

Để hiện thực hóa được chủ trương này, cùng với việc đổi mới phương thức lãnh đạo ở các lĩnh vực khác, Đảng ta phải tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực kinh tế cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn đặt ra ở trong nước và quốc tế.

Kinh tế chuyển mình mạnh mẽ từ các quyết sách của Đảng

Trong những năm qua, thực tiễn từ quá trình đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, lĩnh vực kinh tế đã đạt được những kết quả tích cực. Nhất là từ khi triển khai thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 30/7/2007, về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị. Đảng ta đã tiến hành đổi mới phương thức lãnh đạo trên mọi lĩnh vực, trong đó tập trung đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo đối với lĩnh vực kinh tế. Vì thế, trong lĩnh vực kinh tế của Việt Nam đã đạt được một số thành tựu quan trọng góp phần nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế và khu vực:

Từ quá trình đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, lĩnh vực kinh tế đã đạt được những kết quả tích cực.

Một là, nền kinh tế thoát khủng hoảng tăng trưởng vượt bậc. Sự nghiệp đổi mới đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Trong 10 năm 1990-2000, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 7,5%. Giai đoạn 2006-2010, nền kinh tế nước ta vượt qua nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng nhanh, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 7%.

Quy mô tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 đạt 101,6 tỷ USD (gấp 3,26 lần so với năm 2000). Sang đến giai đoạn 2011-2020, kinh tế vĩ mô duy trì ổn định vững chắc, lạm phát được kiểm soát và duy trì ở mức thấp tạo môi trường và động lực cho phát triển kinh tế - xã hội. Giai đoạn 2011-2015, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt bình quân 5,9%/năm; giai đoạn 2016-2019 ước đạt 6,8%/năm.

Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế tăng trưởng cao nhất của khu vực và IMF đánh giá Việt Nam nằm trong Top 20 nền kinh tế đóng góp lớn nhất vào tăng trưởng toàn cầu năm 2019. Năm 2021, tăng trưởng GDP đạt 2,56%, trong khi nhiều nền kinh tế trên thế giới tăng trưởng âm; năm 2022, tăng trưởng GDP đạt 8,02%, mức tăng cao nhất trong giai đoạn 2011 - 2022.

Hai là, các ngành trong lĩnh vực kinh tế đạt được nhiều thành tựu. Ngành công nghiệp và xây dựng duy trì tốc độ tăng trưởng khá liên tục, tốc độ triển khai ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ được cải thiện. Sản phẩm công nghiệp phát triển ngày càng đa dạng và chất lượng, từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của nền kinh tế, giữ vững thị trường trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu.

Tính chung năm 2021, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 336,25 tỷ USD, tăng 19% so với năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 88,71 tỷ USD, tăng 13,4%, chiếm 26,4% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 247,54 tỷ USD, tăng 21,1%, chiếm 73,6%; chú trọng đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao.

Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu năm 2022 đạt mức kỷ lục 732 tỷ USD, tăng 10% so với năm 2021. Việt Nam tiếp tục nằm trong nhóm 25 nền kinh tế hàng đầu thế giới về thương mại. Dự báo năm 2023, tăng trưởng GDP đạt khoảng trên 5%, mặc dù thấp hơn chỉ tiêu đề ra (khoảng 6,5%) nhưng vẫn là mức khá cao so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.

Ba là, hợp tác song phương, đa phương diễn ra sâu rộng. Cho đến nay, Việt Nam có quan hệ thương mại với 224 đối tác, trong đó có hơn 70 nước là thị trường xuất khẩu của ta; có quan hệ với hơn 500 tổ chức quốc tế; 71 nước công nhận quy chế kinh tế thị trường cho Việt Nam.

Đặc biệt, với việc tham gia 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) đa phương và song phương (15 FTA đã ký kết và 2 FTA đang đàm phán), Việt Nam trở thành tâm điểm của mạng lưới khu vực thương mại tự do rộng lớn, chiếm gần 90% GDP thế giới.

Trong số các thành tựu hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, nổi bật là việc thúc đẩy ký kết, phê chuẩn và triển khai hiệu quả Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), phê chuẩn Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA), và việc thúc đẩy ký kết Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP).

Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Israel (VIFTA) đã chính thức được ký kết ngày 25/7/2023.

Ngoài ra, Việt Nam đã đảm nhận vai trò Chủ tịch ASEAN trong năm 2020, góp phần thúc đẩy việc triển khai Cộng đồng kinh tế ASEAN và liên kết kinh tế giữa ASEAN với các đối tác. Đồng thời, chúng ta cũng đang tăng cường sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp và các hiệp hội ngành hàng trong việc triển khai cam kết, đề xuất giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và ngành hàng, cũng như hỗ trợ doanh nghiệp trong phòng vệ thương mại.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, quá trình đổi mới phương thức lãnh đạo đối với lĩnh vực kinh tế của Đảng tuy còn một số bất cập, khuyết điểm cần khắc phục, song có thể thấy, qua các kỳ Đại hội Đảng từ khóa VIII cho đến nay, nhiều bài học thành công có thể được rút ra. Và nhờ những quyết sách đúng đắn đã làm nên thành công của nền kinh tế cả nước trong gần 30 năm qua, với những bối cảnh thử thách cả trong và ngoài nước đặt ra cho phát triển có những lúc hết sức gay gắt, chưa từng có tiền lệ.

Trong không khí những ngày cả nước hướng về chào mừng 94 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, với tâm thế mới, khí thế mới của cả hệ thống chính trị cùng hướng tới mục tiêu nhất quán của Đảng trong việc phát triển kinh tế xã hội, phấn đấu đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Đỗ Nga - Hoàng Lan